Lịch sử Tiểu Cần

Tên gọi

Tiếng Khmer gọi Tiểu Cần là កញ្ចោង / Kânhchaông / hoặc [kɑɲcaoŋ], có nghĩa là cái bành (kiệu) voi của vua quan.[1]

Tiểu Cần viết bằng chữ Hán小芹 (Xiǎo Qín)[2]

Theo trang thông tin điện tử của huyện Tiểu Cần có ghi nguồn gốc tên huyện như sau: Những chuyện kể dân gian đến nay vẫn còn lưu truyền mãi, nói về nguồn gốc ra đời tên gọi Tiểu Cần. Trong những chuyện dân gian ấy có chuyện kể rằng: đã lâu lắm rồi – vào cái thời mà vùng đất này còn rất hoang vu, có một con rạch chảy qua, con rạch này có tên gọi “Kal Chon” tiếng Khmer, tiếng Việt biến âm thành “Cần Chông” và về sau vùng đất có con rạch chảy qua này được gọi là “Xẻo Cần Chông”. Rồi “Tiểu Cần Chông” và rút gọn lại còn “Tiểu Cần”… Thế rồi con rạch này được gọi là “Xẻo Cần Chông” và miền đất có con rạch chảy qua được gọi là “Miệt xẻo Cần Chông”. Thời gian trôi đi, miệt xẻo Cần Chông được gọi là “Miệt Tiểu Cần”… [3]

Lịch sử

Địa danh Tiểu Cần xuất hiện trong thời kỳ đầu khai phá miền đất này. Thời đó, “Miệt xẻo Cần Chông” là cách gọi dân gian, chỉ một vùng đất có một xẻo băng qua mà trên xẻo đó, cư dân thường bắt cá, tôm bằng một loại ngư cụ được người Việt gọi là “Vó” và người Khmer gọi là “Cần Chông”…

Theo cách gọi dân gian Nam bộ, thì “xẻo” có nghĩa là rạch nước tự nhiên, chảy ra một dòng sông lớn (MêKông), phân biệt với “Ô” để chỉ bào nước hoặc đường nước nhỏ hơn, chỉ chảy ở nội đồng, không trực tiếp đổ ra sông lớn, do vậy mà có tên “xẻo Cần Chông”, rồi “xẻo Cần Chông” được biến âm thành “Tiểu Cần Chông”, sau đó rút gọn chỉ còn “Tiểu Cần”. Như vậy, địa danh “Tiểu Cần” không chỉ là kết quả của quá trình biến âm và rút gọn âm tiết theo quy luật của ngôn ngữ, là kết quả của một quá trình tiếp xúc giao lưu văn hóa trong thời kỳ đầu chung sống của các tộc người Việt, Hoa, Khmer định cư trên vùng đất này.

Cũng theo cách gọi dân gian, trước thế kỷ XIX, vùng đất Tiểu Cần nằm trên địa phận Vang Tứ của xứ Trà Vang. Tới đầu thế kỷ XIX, theo sự sắp xếp tổ chức hành chính của triều đình nhà Nguyễn thì vùng đất Tiểu Cần nằm trên địa phận huyện Tuân Ngãi thuộc phủ Lạc Hóa, trực thuộc Gia Định thành. Từ giữa thế kỷ XIX, vùng đất Tiểu Cần nằm trên địa phận tổng Ngãi Long và tổng Thạnh Trị thuộc huyện Tuân Ngãi, phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long. Tuy vậy tổng Ngãi Long hay tổng Thạnh Trị chỉ là tên gọi hành chính theo sự phân định của chính quyền phong kiến đương thời, còn “Tiểu Cần” vẫn cứ là tên gọi dân gian, sống mãi trong lòng dân. Từ năm 1867, thực dân Pháp đặt ách thống trị ở đây, vùng đất Tiểu Cần vẫn nằm trên một phần đất thuộc hai tổng Ngãi Long và Thạnh Trị nhưng thuộc về Sở tham biện Bắc Trang (Inspection Bactrang). Từ giữa năm 1871, Sở tham biện Bắc Trang được sáp nhập vào Sở tham biện Trà Vinh, vùng đất này lại thuộc vào Sở tham biện Trà Vinh.

Từ đầu thế kỷ XX tỉnh Trà Vinh được thành lập (Province de Trà Vinh), vùng đất Tiểu Cần nằm trên phần đất thuộc về địa lý hành chính Bắc Trang (delégation administrative de Bắc Trang) và địa lý hành chính Càng Long (delégation administrative de Càng Long) của tỉnh Trà Vinh. Từ năm 1917, thực dân Pháp chính thức chuyển đổi cấp địa lý hành chính thành cấp quận, vùng đất Tiểu Cần nằm trên một phần đất thuộc quận Bắc Trang (District de Bắc Trang) và quận Càng Long (District de Càng Long).[4]

Thực dân Pháp tiếp tục sắp xếp và điều chỉnh các đơn vị hành chính cấp quận ở tỉnh Trà Vinh, quận Tiểu Cần được thành lập (District de Tiểu Cần) từ ngày 1 tháng 1 năm 1928, thuộc tỉnh Trà Vinh, gồm có 2 tổng: Ngãi Long với 4 làng, Thạch Hoà Trung với 3 làng; và 8 xã: Đại Mong, Đại Cần, Quảng Dã, Tập Ngãi, Tiểu Cần, Trinh Phụ, Hiếu Tử, Long Định. Quận lỵ nằm trên địa bàn xã Tiểu Cần thuộc tổng Ngãi Long.

Ngày 17 tháng 8 năm 1951, quận Tiểu Cần bị giải thể, nhập địa bàn vào quận Càng Long. Sau năm 1956, quận Tiểu Cần được tái lập, thuộc tỉnh Vĩnh Bình.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Tiểu Cần là huyện của tỉnh Cửu Long, gồm 6 xã: Hiếu Tử, Hùng Hòa, Long Thới, Tân Hòa, Tập Ngãi, Tiểu Cần.

Từ năm 1976 đến nay

Ngày 11 tháng 3 năm 1977, huyện Tiểu Cần bị giải thể, nhập địa bàn vào huyện Cầu Kè và huyện Trà Cú.

Ngày 29 tháng 9 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam ban hành Quyết định số 98/HĐBT, về việc phân vạch địa giới một số huyện thuộc tỉnh Cửu Long. Theo đó, thành lập huyện Tiểu Cần trên cơ sở tách 4 xã từ huyện Trà Cú, 2 xã từ huyện Cầu Kè, 1 xã từ huyện Càng Long; huyện gồm có 7 xã: Hiếu Tử, Hùng Hòa, Long Thới, Ngãi Hùng, Tân Hòa, Tập Ngãi, Tiểu Cần. Trong đó, xã Ngãi Hùng được thành lập ngày 15/09/1981 trên cơ sở tách ra từ xã Tập Ngãi.

Ngày 26 tháng 12 năm 1991, tỉnh Cửu Long được tách thành tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh, huyện Tiểu Cần thuộc tỉnh Trà Vinh.

Ngày 29 tháng 4 năm 1994, giải thể xã Tiểu Cần để thành lập thị trấn Tiểu Cần và xã Phú Cần.

Ngày 7 tháng 10 năm 1995, thị trấn Cầu Quan được thành lập trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích và dân số của xã Long Thới.

Ngày 3 tháng 10 năm 1996, tách đất xã Hiếu Tử để thành lập xã Hiếu Trung.

Ngày 2 tháng 3 năm 1998, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 13/1998/NĐ-CP, về việc thành lập một số xã thuộc các huyện Châu Thành, Trà Cú, Tiểu Cần, Cầu Ngang, Cầu Kè và Càng Long, tỉnh Trà Vinh. Theo đó, thành lập xã Tân Hùng thuộc huyện Tiểu Cần trên cơ sở 1.890,89 ha diện tích tự nhiên và 8.374 nhân khẩu của xã Hùng Hoà.

Từ đó, huyện Tiểu Cần có 2 thị trấn và 9 xã như hiện nay.